Quai bị là một bệnh truyền nhiễm cấp tính vừa phổ biến vừa nguy hiểm. Bệnh chưa có thuốc điều trị đặc hiệu và nếu không được chăm sóc tích cực, dễ tiến triển đến nhiều biến chứng tai hại, khó khắc phục. Vậy, quai bị nhận biết thế nào và điều trị ra sao, cùng tìm hiểu những thông tin ấy trong bài viết sau của Thu Cúc TCI, bố mẹ nhé!
Menu xem nhanh:
1. Nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), quai bị là bệnh truyền nhiễm có xu hướng tập trung tại các khu vực đông dân cư, chất lượng cuộc sống từ thấp đến tương đối thấp và có khí hậu mát hoặc lạnh. Tại Việt Nam, bệnh phân bố khắp cả nước quanh năm nhưng xuất hiện nhiều hơn cả ở miền Bắc và Tây nguyên vào 2 mùa Thu – Đông, với tỷ lệ mắc rơi vào tầm 10 – 40/100.000 cư dân. Nếu thuận lợi phát triển, bệnh có thể phát triển thành các cụm dịch vừa và nhỏ.
Được biết, bệnh do virus Mumps, thuộc chi Rubulavirus, họ Paramyxoviridae gây ra. Bệnh có thể phát sinh trên mọi trẻ nhưng trẻ nam, trên 2 tuổi có nguy cơ mắc bệnh cao hơn những trẻ còn lại. Tương tự nhiều bệnh truyền nhiễm phổ biến khác như thủy đậu, sởi,… để lây từ trẻ bệnh sang trẻ không bệnh, bệnh cần vật thể trung gian là dịch tiết đường hô hấp (dịch mũi, dịch họng). Vật thể trung gian của bệnh có thể tiếp xúc với trẻ không bệnh theo 2 phương thức: Trực tiếp và gián tiếp.
2. Dấu hiệu nhận biết
Về cơ bản, quai bị có thể được nhận biết bằng những dấu hiệu sau:
– Sau khi nhiễm virus Mumps 7 – 14 ngày: Trẻ sốt, đau đầu, đau họng, đau hàm, đau cơ-xương-khớp, buồn nôn, nôn, chán ăn, mệt mỏi.
– Sau khi những dấu hiệu trên xuất hiện khoảng 1 – 3 ngày: Trẻ sưng tuyến nước bọt mang tai, có thể sưng một bên hoặc hai bên cùng lúc/không cùng lúc. Sự sưng tuyến nước bọt mang tai của bệnh rất đặc trưng. Cụ thể, nó thường lan đến má, dưới hàm, đẩy tai lên và ra ngoài. Trong một số trường hợp, thậm chí nó lan đến cả ngực, gây phù xương ức. Vùng sưng đau đớn nhưng không nóng, không xung huyết. Bên cạnh sưng tuyến nước bọt mang tai, đôi khi trẻ còn sưng bìu và đau tinh hoàn.
Tuy nhiên, có khoảng 25% trẻ nhiễm virus Mumps mà không biểu hiện rõ ràng, vô tình trở thành nguồn lây nhiễm bệnh.
3. Biến chứng
Bệnh truyền nhiễm cấp tính quai bị có một tổ hợp biến chứng vô cùng đáng sợ. Cụ thể, một số biến chứng điển hình của nó chúng ta có thể kể đến là:
– Biến chứng ở nam giới – Viêm tinh hoàn và mào tinh hoàn: Biến chứng có triệu chứng là tinh hoàn và mào tinh hoàn sưng, phù nề. Tình trạng viêm này thường kéo dài 3 – 7 ngày, sau đó 50% trẻ biến chứng viêm tinh hoàn và mào tinh hoàn sẽ bị teo tinh hoàn, giảm tỷ lệ sinh tinh, có thể vô sinh. Tỷ lệ nam giới mắc bệnh sau tuổi dậy thì bị biến chứng viêm tinh hoàn và mào tinh hoàn là 20 – 35%.
– Biến chứng ở nữ giới – Viêm buồng trứng: Tỷ lệ nữ giới mắc bệnh sau tuổi dậy thì bị biến chứng viêm buồng trứng là 7%.
– Biến chứng ở cả nam giới và nữ giới: Viêm tụy, nhồi máu phổi, viêm phổi, viêm thanh phế quản, viêm cơ tim, viêm não, xuất huyết giảm tiểu cầu,…
Tỷ lệ trẻ tử vong vì bệnh truyền nhiễm này không vượt quá 1/100.000. Tuy nhiên, số lượng trẻ mắc bệnh bị biến chứng thì không hề thấp. Trẻ càng lớn, tình trạng bệnh càng nghiêm trọng.
4. Điều trị
Điều trị quai bị, chủ yếu là điều trị hỗ trợ, tức điều trị triệu chứng – phòng ngừa biến chứng, bởi như đã chia sẻ phía trên, bệnh truyền nhiễm này chưa có thuốc điều trị đặc hiệu. Theo đó:
– Khi trẻ có dấu hiệu bệnh, bố mẹ đưa trẻ đến ngay cơ sở y tế uy tín gần nhất để trẻ được thăm khám, chẩn đoán và nhận chỉ định điều trị triệu chứng – phòng ngừa biến chứng.
– Cho trẻ uống thuốc hạ sốt, thuốc giảm đau theo hướng dẫn của chuyên gia, khi cần. Để hạ sốt, giảm đau, bố mẹ cũng có thể chườm mát cho trẻ. Lưu ý: Không tùy tiện sử dụng thuốc kháng sinh. Chỉ sử dụng khi trẻ bội nhiễm và có chỉ định của bác sĩ.
– Bổ sung đủ nước, các chất điện giải và cung cấp đủ dinh dưỡng cho trẻ bằng các thực phẩm được chế biến theo nguyên tắc 3 chữ L: Lỏng, lạt, lạnh.
– Trẻ nam có triệu chứng viêm tinh hoàn và mào tinh hoàn, trẻ nữ có triệu chứng viêm buồng trứng, cần được theo dõi chặt chẽ tại bệnh viện, tránh để lại những di chứng đáng tiếc. Trẻ cả nam cả nữ xuất hiện các dấu hiệu biến chứng khác, phải được tái khám lập tức.
5. Dự phòng
5.1. Dự phòng quai bị đặc hiệu
Quai bị có thể được dự phòng đặc hiệu bằng tiêm vắc xin. Trẻ đủ 12 tháng tuổi cần được tiêm vắc xin đơn hoặc vắc xin kết hợp sởi – quai bị – rubella càng sớm càng tốt, theo liệu trình sau:
– Mũi 1: Tiêm khi trẻ 12 – 18 tháng tuổi.
– Mũi 2: Tiêm khi trẻ 3 – 5 tuổi hoặc trước khi trẻ đi học. Mũi 2 nên được tiêm cách mũi 1 tối thiểu 1 tháng.
5.2. Dự phòng quai bị không đặc hiệu
Nếu trẻ chưa đủ điều kiện để tiêm vắc xin, bố mẹ có thể dự phòng quai bị không đặc hiệu cho trẻ như sau: Vệ sinh cá nhân cho trẻ thường xuyên. Giữ gìn vệ sinh đồ đạc sinh hoạt, không gian sống của trẻ và gia đình sạch sẽ. Không cho trẻ tiếp xúc với người bệnh và người đã tiếp xúc với người bệnh. Hạn chế cho trẻ đến nơi đông người, nếu không thể, cho trẻ đeo khẩu trang khi đến đó.
Phía trên là toàn bộ thông tin về quai bị, bao gồm: Nguyên nhân – yếu tố nguy cơ, dấu hiệu nhận biết, biến chứng, điều trị và phòng ngừa. Nếu còn băn khoăn cần giải đáp, liên hệ Thu Cúc TCI ngay, bố mẹ nhé!