Bệnh quai bị có nguy hiểm không – Theo chuyên gia, quai bị ở trẻ nhỏ là một bệnh truyền nhiễm cấp tính nguy hiểm. Bệnh có thể tiến triển đến nhiều biến chứng tai hại, nếu không được phát hiện kịp thời và chăm sóc tích cực. Vậy, cụ thể thì những biến chứng đó của quai bị là gì và làm thế nào để hạn chế tối đa nguy cơ quai bị biến chứng? Đọc bài viết sau của Thu Cúc TCI ngay để biết câu trả lời chi tiết, bố mẹ nhé!
Menu xem nhanh:
1. Quai bị: Một số thông tin cơ bản
1.1. Nguyên nhân và yếu tố nguy cơ quai bị
Virus Mumps, thuộc chi Rubulavirus, họ Paramyxoviridae được xác định là nguyên nhân khởi phát quai bị. Bệnh có thể tấn công bất cứ ai, từ trẻ nhỏ đến người trưởng thành, từ nam đến nữ. Tuy nhiên, nếu có một trong hai hoặc cả hai yếu tố sau, trẻ có nguy cơ mắc quai bị cao hơn so với bình thường: Thứ nhất, từ 2 tuổi trở lên. Thứ hai, là nam giới. Như vậy, có thể thấy yếu tố nguy cơ của quai bị là tuổi tác và giới tính.
1.2. Khả năng và phương thức lây nhiễm quai bị
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã kết luận, trên toàn cầu, quai bị có xu hướng phát triển mạnh mẽ hơn ở những khu vực có ba đặc điểm sau: Thứ nhất, đông dân cư. Thứ hai, chất lượng cuộc sống của cư dân thấp hoặc tương đối thấp. Thứ ba, khí hậu mát hoặc lạnh. Tại Việt Nam, bệnh nhi quai bị được ghi nhận chủ yếu ở miền Bắc và Tây Nguyên, vào các mùa Thu – Đông. Điều đó không đồng nghĩa với việc các miền và các mùa khác không xuất hiện bệnh nhi quai bị. Nhìn chung, tỷ lệ mắc quai bị ở Việt Nam dao động từ 10 đến 40 trên 100.000 trẻ. Với tỷ lệ này thì nếu lây lan thuận lợi, quai bị có thể bùng phát thành các cụm dịch vừa và nhỏ.
Giống thủy đậu, sởi và các bệnh truyền nhiễm cấp tính khác, quai bị lây trực tiếp hoặc gián tiếp, từ trẻ bệnh sang trẻ không bệnh, thông qua dịch tiết đường hô hấp hay dịch tiết mũi họng. Cụ thể, chúng ta có một số phương thức lây lan quai bị như sau:
– Trực tiếp: Trẻ không bệnh hít phải dịch tiết mũi họng trong không khí trẻ bệnh ho/hắt hơi ra. Trẻ không bệnh tiếp xúc gần gũi, thân mật, như ôm, hôn,… trẻ bệnh.
– Gián tiếp: Trẻ không bệnh cầm/nắm/sờ/chạm đồ vật dính dịch tiết mũi họng trẻ bệnh rồi vô tình sờ/chạm tay lên mắt/mũi/miệng.
1.3. Triệu chứng quai bị
Không phải trẻ mắc quai bị nào cũng có triệu chứng rõ ràng. Tỷ lệ trẻ quai bị như vậy lên đến 25%. Những trẻ này sẽ vô tình trở thành nguồn lây nhiễm bệnh, góp phần giúp cho bệnh bùng phát thành dịch. 75% trẻ mắc quai bị còn lại sẽ có dấu hiệu nhận biết như sau:
– 7 – 14 ngày sau khi nhiễm virus Mumps: Sốt, đau đầu, đau họng, đau hàm, đau cơ-xương-khớp, buồn nôn, nôn, chán ăn, mệt mỏi. Những dấu hiệu này không phải là dấu hiệu điển hình, chúng có ở rất nhiều bệnh truyền nhiễm cấp tính khác.
– 1 – 3 ngày sau khi những triệu chứng trên xuất hiện: Sưng tuyến nước bọt mang tai ở một bên hoặc ở cả hai bên cùng lúc/không cùng lúc. Khi tuyến nước bọt sưng, không chỉ mang tai sưng mà cả má, hàm dưới, thậm chí là ngực cũng sưng, khiến cho tai bị đẩy lên và ra ngoài, xương ức bị phù nề. Vùng sưng không nóng, không xung huyết nhưng có đau đớn. Bên cạnh sưng tuyến nước bọt mang tai, ở trẻ nam còn có thể có biểu hiện sưng bìu và đau tinh hoàn. Hai dấu hiệu nhận biết này là hai dấu hiệu nhận biết đặc trưng, phân biệt rõ ràng quai bị và những bệnh truyền nhiễm cấp tính khác.
2. Bệnh quai bị có nguy hiểm không – Đáp án cần đặc biệt lưu tâm
2.1. Biến chứng quai bị
Quai bị nếu không được phát hiện kịp thời và chăm sóc tích cực, có thể biến chứng đến nhiều biến chứng tai hai. Theo đó, những biến chứng phổ biến và đáng sợ nhất của quai bị chúng ta có thể kể đến là:
– Viêm tinh hoàn và mào tinh hoàn (biến chứng ở nam giới): Có tới 25 – 30% nam giới mắc quai bị sau tuổi dậy thì gặp phải biến chứng này. Một nửa số đó cuối cùng phải chung sống vĩnh viễn với di chứng teo tinh hoàn, giảm tỷ lệ sinh tinh, vô sinh. Dấu hiệu nhận biết biến chứng này là tinh hoàn, cũng như mào tinh hoàn của trẻ sưng và phù nề, kéo dài 3 – 7 ngày.
– Viêm buồng trứng (biến chứng ở nữ giới): Có tới 7% nữ giới mắc quai bị sau tuổi dậy thì gặp phải biến chứng này.
– Xuất huyết giảm tiểu cầu, viêm não, viêm cơ tim, viêm phổi, nhồi máu phổi, viêm thanh phế quản, viêm tụy,… (biến chứng không phân biệt giới tính).
Mặc dù chỉ có không quá 1 trên 100.000 trẻ mắc quai bị tử vong, số lượng trẻ quai bị bị biến chứng là cao hơn nhiều. Theo chuyên gia, tỷ lệ biến chứng càng cao khi trẻ càng lớn tuổi.
2.2. Điều trị quai bị
Vấn đề chung của nhiều bệnh truyền nhiễm là hiện nay chưa có thuốc điều trị đặc hiệu chúng và quai bị không phải là ngoại lệ. Chính vì vậy, điều trị quai bị về cơ bản là điều trị hỗ trợ hay điều trị triệu chứng – phòng ngừa biến chứng. Thuốc trẻ có thể sử dụng khi bị quai bị chỉ là các thuốc hạ sốt, giảm đau. Sử dụng chúng như nào cần phải được chuyên gia hướng dẫn. Điều đó đồng nghĩa với việc khi trẻ có dấu hiệu quai bị, bố mẹ phải đưa trẻ đến cơ sở y tế uy tín gần nhất ngay.
Ngoài ra, để hỗ trợ điều trị quai bị hiệu quả, bố mẹ nên:
– Chườm mát trán, nách và các vùng sưng cho trẻ
– Bổ sung nước, các chất điện giải và dinh dưỡng cho trẻ đầy đủ. Trong đó, thực phẩm bố mẹ cho trẻ ăn phải được chế biến theo nguyên tắc 3 chữ L: Lỏng, lạt, lạnh.
Trường hợp trẻ nam có dấu hiệu biến chứng viêm tinh hoàn và mào tinh hoàn, trẻ nữ có dấu hiệu biến chứng viêm buồng trứng, trẻ cả nam cả nữ có dấu hiệu các biến chứng khác, trẻ phải được theo dõi chặt chẽ tại bệnh viện, để kịp thời xử lý, tránh để lại những di chứng đáng tiếc.
2.3. Dự phòng quai bị
Mặc dù nguy hiểm, quai bị hoàn toàn có thể được chủng ngừa đặc hiệu bằng vắc xin. Trẻ đủ 12 tháng, càng sớm càng tốt, phải được chủng ngừa vắc xin đơn hoặc vắc xin kết hợp sởi – quai bị – rubella ngay, theo liệu trình sau:
– Mũi 1: Tiêm khi trẻ 12 – 18 tháng tuổi
– Mũi 2: Tiêm khi trẻ 3 – 5 tuổi tuổi hoặc trước khi trẻ đi học
Tuy nhiên, nếu đã bỏ lỡ các mốc tuổi này, bố mẹ hãy cứ yên tâm, vì vắc xin quai bị tiêm ở thời điểm nào cũng đạt hiệu quả như nhau, miễn sao 2 mũi tiêm cách nhau tối thiểu 1 tháng.
Phía trên là câu trả lời cho câu hỏi bệnh quai bị có nguy hiểm không. Nếu vẫn còn thắc mắc cần giải đáp, liên hệ ngay Thu Cúc TCI bố mẹ nhé!