Sán lá gan – nguyên nhân gây ra bệnh sán lá gan ở người – là loại ký sinh trùng cực phổ biến trên thế giới. Theo thống kê của WHO, có tới 19 triệu người ở khu vực châu Á nhiễm sán lá lớn ở gan. Bài viết này cùng tìm hiểu: Sán lá gan kí sinh ở đâu, như thế nào và chúng gây ra những nguy hiểm gì cho sức khỏe con người.
Menu xem nhanh:
1. Giải thích: Sán lá gan là gì, có những loại sán lá gan nào?
1.1. Sơ lược về sán lá gan
Sán lá gan kí sinh, thuộc họ sán lá, là một loại kí sinh trùng phổ biến ở người. Thông thường, có hai loại sán chính là sán lá nhỏ và sán lá lớn, xâm nhập vào cơ thể qua đường ăn uống và phát triển mạnh ở gan người.
Sán lá là những loài ký sinh trùng có kích thước từ vài mm đến vài cm với thân dẹp hình chiếc lá không phân đoạn. Sán có đĩa hút miệng và bụng. Đĩa hút bụng giúp sán bám vào cơ quan ký chủ, nhưng đĩa hút miệng giúp tiêu hóa dễ dàng hơn. Sán có miệng, thực quản và manh tràng và cơ quan sinh dục.
1.2. Sán lá gan kí sinh có những loại nào?
Sán lá gan nhỏ (Clonorchis sinensis) và sán lá gan lớn (Fasciola hepatica hoặc Fasciola gigantica) là những loại sán lá gan gây bệnh. Chúng có hình lá, thân dẹt dù nhỏ hay lớn. Sán lá gan lớn thường có kích thước lớn hơn sán lá gan nhỏ khá nhiều lần.
Sán lá gan nhỏ
Sán lá gan nhỏ có kích thước 27x16mcm (1mcm = 0,001mm), trứng có nắp lồi rõ ràng và màu nâu sẫm. Phôi sán nằm trong trứng. Sán trưởng thành có màu đỏ nhạt, dài từ 1-2 cm và dày 0,2–0,4 cm. Ngoài ra, đĩa hút bụng nhỏ hơn đĩa hút miệng. Thực quản của sán lá gan nhỏ thường dài hơn một nửa chiều dài của thân sán, trong đó, manh tràng kéo dài đến tận đuôi.
Sán lá gan lớn
Trứng sán có phôi bào bên trong và có vỏ dày màu vàng nâu, hình bầu dục có nắp và kích thước 140 x 80 mcm. Sán trưởng thành có màu xám hồng và dài từ 3 đến 4 cm, giống như chiếc lá và có đĩa hút miệng ở phần đầu nhỏ. Sán lá gan lớn có thực quản ngắn và ruột dài phân nhiều nhánh nhỏ đến cuối thân. Lỗ sinh dục của chúng nằm ở trước đĩa hút bụng.
1.3. Sán lá gan kí sinh có vòng đời như thế nào?
Sán lá gan thường được tìm thấy ở nhiều tỉnh thành của Việt Nam, vậy sán lá gan kí sinh như thế nào?
Trong cơ thể con người, sán lá gan đã phát triển ở trong ống mật. Trứng sán theo phân ra ngoài, gặp nước và phát triển thành ấu trùng có lông tơ. Ấu trùng đi qua nắp, tìm những ốc thích hợp để vào, phát triển các giai đoạn bào tử nang (sporocyst), phát triển thêm vài giai đoạn rồi tiến tới ấu trùng đuôi.
Mỗi giai đoạn, số lượng ấu trùng tăng gấp bội. Từ một ấu trùng lông có thể tạo ra một trăm ngàn ấu trùng đuôi. Ấu trùng đuôi rời khỏi ốc, bơi tìm ký chủ trung gian thích hợp để bám. Tại đây, nó phát triển thành ấu trùng không có đuôi.
Ký chủ trung gian thứ hai có thể là thực vật thủy sinh, cá hoặc loài giáp xác. Khi người hoặc các loài động vật ăn chúng, hậu ấu trùng đi vào ruột, sau đó đến các cơ quan phù hợp để phát triển thành sán trưởng thành. Điều này diễn ra trong vài tháng cho đến khi các triệu chứng bệnh sán lá gan xuất hiện rõ ràng.
2. Những đặc điểm khi sán kí sinh như thế nào?
Sán lá gan, bao gồm cả sán lá gan lớn và nhỏ, phải ký sinh vào cơ thể người hoặc động vật trước khi chúng có thể phát triển chu kỳ.
2.1. Đặc điểm của sán lá nhỏ gan khi kí sinh
Đối với sán nhỏ, chúng ký sinh chủ yếu ở người và một số động vật như chó, mèo, hổ, báo, cáo, chồn, rái cá, chuột,… Trứng được bài xuất ra ngoài qua phân, tiếp xúc với môi trường nước ngọt trong sông, hồ. Loài ốc nước ngọt ăn trứng lơ lửng trong nước. Ấu trùng lông tơ xuất hiện từ trứng trong cơ thể ốc và trải qua các giai đoạn từ bào tử nang đến ấu trùng đuôi. Ấu trùng đuôi rời khỏi ốc chui qua da cá nước ngọt như cá lia thia, cá diếc và cá rô. Khi chúng vào cơ thể của cá, chúng rụng đuôi và tạo ra hậu ấu trùng ở da hoặc thịt của cá.
Con người có thể bị nhiễm bệnh do uống nước lã, ăn gan động vật nhiễm bệnh chưa được nấu chín, ăn rau mọc dưới nước (như ngò om, xà lách xoong, rau muống nước…) còn sống nhưng không được rửa kỹ, có thể chứa trứng hoặc ấu trùng nang chưa được nấu chín.
2.2. Đặc điểm của sán lá lớn gan khi kí sinh
Sán lá gan lớn sống trong ống mật của động vật ăn cỏ như trâu và bò rồi đẻ trứng, sau đó khoảng 9- 15 ngày, phôi bào phát triển thành ấu trùng lông. Khi ra ngoài, sán gặp môi trường nước, ấu trùng lông tơ rời khỏi trứng, bơi trong nước, rồi chui vào ốc Lymnaea sống ở dưới nước. Trong cơ thể ốc, chúng phát triển qua các giai đoạn bào tử nang trước khi đến giai đoạn ấu trùng đuôi. Ấu trùng đuôi rời khỏi ốc, bám vào cây thủy sinh, rụng đuôi biến thành hậu ấu trùng.
Khi động vật hoặc người ăn rau, ấu trùng xâm nhập và mất vỏ, chúng trở thành sán non. Sán non xuyên qua vách ruột, xuyên qua phúc mạc và xuyên qua gan để xâm nhập vào các ống mật, thường sống khoảng 1 năm tại đây. Sán non thường lọt vào mạch máu theo đại tuần và xâm nhập vào phổi, mắt và mô dưới da.
3. Sán lá gan xâm nhập cơ thể gây ra những triệu chứng gì?
Đối với sán lá gan nhỏ, ở giai đoạn khởi phát, người bệnh gặp phải các vấn đề về tiêu hóa, ói mửa, tiêu chảy kèm theo táo bón và chán ăn. Ngoài ra, người bệnh có thể bị nổi mẩn cùng với bạch cầu ái toan tăng. Giai đoạn toàn phát, bệnh nhân sẽ sụt cân và đau bụng. Gan sẽ to, cứng, đau và sưng ở ống dẫn mật. Vách dày hơn sẽ làm tắc mật, ứ mật và làm vàng da. Người bệnh sẽ gặp tình trạng gan xơ hóa, thiếu máu nặng, tăng huyết áp tĩnh mạch cửa, suy kiệt dần rồi chết nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời. Sán có thể lạc chỗ đến ống tụy, dẫn đến viêm ống tụy.
Sán lá gan lớn thường trải qua giai đoạn khởi phát trong khoảng hai đến ba tháng, tương ứng với giai đoạn khi sán non bắt đầu di chuyển qua nhu mô gan đến ống mật. Ngoài các triệu chứng nhiễm độc như nhức đầu, sốt nhẹ, mệt mỏi, tiêu chảy và đau vùng hạ sườn phải, bệnh nhân thường được phát hiện bạch cầu ái toan trong máu ở mức từ 70- 80 phần trăm.
Giai đoạn toàn phát bao gồm sán trưởng thành trong ống mật và viêm ống mật mạn tính. Bệnh nhân thường viêm ống mật cấp, gan to đau, sốt kèm ớn lạnh, rối loạn chức năng tiết mật, tiêu chảy xen kẽ táo bón, vàng da, dị ứng và suy sụp. Bện kéo dài nhưng ít khi dẫn đến xơ gan.
Trên đây là thông tin về sán lá gan kí sinh: các loại sán, đặc điểm và các triệu chứng nổi bật của bệnh sán lá gan.