U tuỵ được chia làm 2 loại:
– U lành tính: u tụy bẩm sinh, nhẫn tụy, u nang tụy.
– U tụy ác tính: Ung thư tuyến tụy.
Menu xem nhanh:
1. U tụy bẩm sinh
Là những khối u có cấu trúc như truyến tụy do hậu quả của sự rối loạn phát triển của mầm tụy. U có thể nằm ở những vị trí khác nhau trong ổ bụng, thường ở lớp hạ niêm mạc (75%) của đường tiêu hóa.
2. Nhẫn tụy
3. U nang tụy
U nang tụy bẩm sinh ít gặp. Nguyên nhân do quá trình giãn rộng các nhú tụy kiểu nang (acino-tubular) hoặc các đường ống dẫn dịch tụy. Người ta chia ra 3 hình thái sau (tùy nguyên nhân gây giãn)
- Nang ứ trệ (retentionscyste): Do chèn ép từ bên trong hoặc từ bên ngoài hệ thống dẫn dịch tụy.
- U tụy bẩm sinh : Teratoma hay dermatoma.
- Các tổ chức tân sinh phát triển: cysteadenoma.
Các loại u nang này trên vi thể thấy một lớp biểu mô lót thực sự trong lòng các nang. Sự phát triển các u nang này có thể dẫn tới ác tính.
4. Ung thư tuyến tụy
Ung thư tuỵ chiếm 2-4% trong các loại ung thư, bệnh đang có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây. Đứng thứ 2 trong các nguyên nhân gây tử vong của ung thư đường tiêu hoá, sau ung thư đại trực tràng và đứng hàng thứ 4 gây tử vong trong các loại carcinom. Bệnh gặp ở nam hơn ở nữ (1,5/1) thường ở tuổi trung niên, hiếm gặp ở < 45 tuổi.
Ung thư tuyến nội tiết và ngoại tiết có những triệu chứng riêng, và có cách điều trị cũng như tiên lượng khác nhau:
Khối u ngoại tiết: là loại ung thư tuyến tụy phổ biến nhất, gần như tất cả các khối u là ung thư, và bắt đầu trong các tế bào tuyến.
Khối u nội tiết: Các khối u tuyến tụy nội tiết ít gặp hơn. Hầu hết các khối u không phải ung thư (lành tính), nhưng có một số ít là ung thư. Triển vọng đối với những khối u này thường là tốt hơn so với ung thư tụy ngoại tiết.
Đối với việc chẩn đoán khối u tụy nội tiết, ngoài triệu chứng lâm sàng còn phải xác định bằng những xét nghiệm định lượng hoóc-môn trong máu và những kỹ thuật hình ảnh học: siêu âm, chụp cắt lớp điện toán (CT Scanner), cộng hưởng từ nhân (MRI), PET-CT, xạ hình…