Glôcôm là bệnh lý mắt có tỷ lệ gây mù lòa cao thứ 2 thế giới. Theo thống kê, có đến khoảng 3 triệu người Mỹ và 64 triệu người trên toàn thế giới mắc bệnh glôcôm nhưng chỉ có 1/2 trong số đó được phát hiện.
Menu xem nhanh:
1. Bệnh glôcôm là bệnh gì? Triệu chứng ra sao?
Bệnh glôcôm (Thiên đầu thống) là thuật ngữ chỉ một nhóm các bệnh lý của tình trạng thoái hóa thần kinh thị giác, tiến triển mãn tính và xảy ra tình trạng tăng nhãn áp, tổn hại thị trường, lõm teo đĩa thị.
Bệnh glôcôm có thể xảy ra với bất cứ ai ở bất cứ độ tuổi nào, và trên 60 là độ tuổi được ghi nhận nhiều ca bệnh hơn 6 lần so với các nhóm tuổi khác.
2. Phân loại bệnh glôcôm
Trên thế giới, có rất nhiều cách phân loại bệnh glôcôm. Việt nam hiện nay chia bệnh lý thành 2 loại chính:
2.1. Glôcôm nguyên phát (Đây là dạng phổ biến và được quan tâm nhiều nhất):
– Glôcôm góc đóng nguyên phát (dạng phổ biến nhất ở Việt Nam hiện nay)
– Glôcôm góc mở nguyên phát
2.2. Glôcôm thứ phát:
Đây là tình trạng thiên đầu thống xuất hiện sau những rối loạn tại mắt và thân thể
– Glôcôm xuất phát từ các chấn thương
– Do viêm màng bồ đào
– Do bệnh lý của thể thủy tinh
– …
Glôcôm là bệnh lý nguy hiểm vì nếu không được phát hiện và xử lý kịp thời sẽ gây ra những biến chứng nghiêm trọng, đặc biệt là mù lòa vĩnh viễn. Hiện chưa có thuốc hay bất cứ can thiệp phẫu thuật nào có thể phục được những tổn thương do glôcôm gây ra.
3. Triệu chứng thường gặp của glôcôm
Glôcôm là một bệnh lý có những triệu chứng khác nhau tùy theo từng thể. Cụ thể:
3.1. Đối với thể glôcôm góc đóng cơn cấp
Đây là thể có các triệu chứng xuất hiện dữ dội và đột ngột:
– Nhãn cầu đột nhiên căng cứng như hòn bi
– Mắt đột nhiên đau nhức dữ dội và lan dần lên đỉnh đầu
– Mi sưng nề, mắt trở nên đỏ đục, nước mắt chảy và có hiện tượng sợ ánh sáng
– Thị lực của bệnh nhân suy giảm nhanh chóng, xuất hiện lớp mờ sương và xuất hiện quầng xanh đỏ khi nhìn vào các vật phát sáng
– Có thể mất hoàn toàn thị lực tạm thời hoặc vĩnh viễn nếu không được phát hiện kịp thời
– Các triệu chứng khác: vã mồ hôi, buồn nôn, nôn, tiêu chảy, đau bụng,…
Đôi khi, người bệnh có thể nhầm lẫn các triệu chứng ban đầu là các bệnh lý cảm sốt thông thường nên chủ quan và tự điều trị tại nhà, dẫn đến biến chứng gây mù lòa vĩnh viễn mà không thể cứu vãn.
3.2. Thể glôcôm góc đóng bán cấp
Triệu chứng ở thể này cũng như glôcôm góc đóng cơn cấp nhưng ít dữ dội hơn. Thỉnh thoảng, người bệnh sẽ cảm nhận được những cơn đau nhức ở mắt đi kèm với nhức đầu và nhìn mờ thoáng qua. Tuy nhiên, thị lực sẽ trở lại bình thường nhanh chóng. Mặc dù vậy, người bệnh cũng cần thận trọng vì tần suất và mức độ của các cơn đau sẽ tăng dần và thị lực cũng sa sút theo.
3.3. Thể glôcôm góc đóng mãn tính
Đây là thể hiếm gặp của glôcôm góc đóng. Thể mãn tính thường diễn ra âm thầm mà không có triệu chứng. Chỉ đến khi phát bệnh, người bệnh đi khám mới phát hiện và thị lực lúc này yếu hẳn, đôi khi, mất hoàn toàn thị lực.
3.4. Glôcôm góc mở
Đây là bệnh lý phát triển thành mãn tính mà không có dấu hiệu, kể cả sự giảm sút thị lực. Khi bệnh lý phát triển đến giai đoạn nặng người bệnh mới phát hiện và đi khám thì đã quá muộn. Triệu chứng của bệnh lý không rõ ràng, đôi khi xuất hiện những cơn nặng và tức mắt thoáng qua, mắt mờ như nhìn qua màn sương và có quầng xanh đỏ khi nhìn vật phát sáng. Các triệu chứng chỉ xuất hiện rất ngắn và tự hết nên nhiều bệnh nhân chủ quan mà không đi thăm khám để điều trị.
4. Làm sao để điều trị bệnh glôcôm?
Việc điều trị bệnh glôcôm đòi hỏi bác sĩ phải xác định được chính xác thể bệnh vì mỗi thể bệnh lại có các phương pháp điều trị khác nhau
4.1. Bệnh glôcôm góc đóng đơn cấp
Đây là một loại cấp cứu nhãn khoa, cần sự khẩn trương và tích cực trong việc điều trị để hạn nhãn áp nhanh chóng, giảm đau cũng như an thần cho bệnh nhân.
Các loại thuốc điều trị bệnh glôcôm như Pilocarpin, Acetazolamid hay tiêm tĩnh mạch Diamox đều cần có chỉ định của bác sĩ và được theo dõi sát sao việc sử dụng thuốc.
Việc điều trị nội khoa bằng thuốc chỉ giải quyết tạm thời tình trạng cấp cứu nhãn khoa để có thể bảo tồn thị lực cho người bệnh. Đối với glôcôm góc đóng, bệnh nhân thường sẽ cần can thiệp phẫu thuật tùy theo mức độ và giai đoạn của bệnh.
Hiện nay có 3 phương pháp phẫu thuật đang được ứng dụng phổ biến nhất để điều trị glôcôm:
4.1.1. Cắt bè củng giác mạc
Đây là phương pháp phẫu thuật có thể nói được ra đời sớm nhất trong 3 phương pháp điều trị glôcôm. Ở phương pháp này, bác sĩ sẽ tiến hành cắt bỏ một phần bè củng giác mạc và mống mắt để tạo đường thoát cho thủy dịch giúp áp suất trong mắt được ổn định.
4.1.2. Mổ bằng phương pháp cấy ghép ống thoát thủy dịch
Bác sĩ sẽ sử dụng một chiếc ống silicon có chiều dài khoảng 1,3cm để làm ống thoát thủy dịch ghép vào mắt bệnh nhân. Khi áp dụng phương pháp này, người bệnh cần phải băng mắt sau khi phẫu thuật một vài tuần và theo dõi sát sao đến khi bình phục hẳn.
4.1.3. Ứng dụng laser để mổ glôcôm
Đây là phương pháp phẫu thuật hiện đại nhất hiện nay để điều trị bệnh glôcôm. Phẫu thuật không cần sử dụng đến dao kéo, thay vào đó, bác sĩ sẽ sử dụng tia laser để chiếu vào khu vực bè giác mạc (hay còn gọi là khu vực thoát thủy dịch) để tạo ra khoảng 100 lỗ nhỏ giúp cho thủy dịch trong mắt được thoát ra. Mổ bằng laser có rất nhiều ưu điểm như:
– Không sử dụng dao kéo trực tiếp lên mắt
– Hiệu quả đem lại cao
– Giảm thiểu tối đa nguy cơ xảy ra các biến chứng nguy hiểm
– Theo dõi mắt sau phẫu thuật từ 2-5 năm để theo dõi và phát hiện kịp thời nếu bệnh tái phát.
4.2. Bệnh glôcôm góc mở
Mục tiêu điều trị bệnh glôcôm góc mở là hạ nhãn áp xuống dưới mức có thể gây tổn hại cho thần kinh ở mắt và chức năng thị giác. Các bác sĩ có thể chỉ định cho bệnh nhân tra các loại thuốc như:
– Nhóm huỷ beta-adrenergic
– Nhóm cường adrenergic
– Nhóm cường cholinergic
– Nhóm prostaglandin
Việc lựa chọn thuốc phù hợp là trách nhiệm của bác sĩ và bệnh nhân cần tuân thủ tuyệt đối theo chỉ định điều trị trong suốt cuộc đời dưới sự theo dõi định kỳ của bác sĩ để đảm bảo kết quả tốt nhất. Nếu việc điều trị nội khoa bằng thuốc không đem lại hiệu quả, các bác sĩ sẽ suy nghĩ đến việc sử dụng các phương pháp phẫu thuật.
4.3. Thăm khám định kỳ
Đối với những bệnh nhân điều trị bệnh glôcôm góc mở nội khoa, các bác sĩ thường chỉ định đi thăm khám và theo dõi nhãn áp 2 tháng/ lần, kiểm tra thị trường và làm các xét nghiệm soi đáy mắt 3-6 tháng/ lần. Việc này là bắt buộc vì có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả cuối cùng.
Đối với các trường hợp điều trị glôcôm bằng phương pháp phẫu thuật, bệnh nhân cần đi tái khám và theo dõi nhãn áp 3 tháng/ lần trong năm đầu tiên và kiểm tra định kỳ 6-12 tháng/lần.
Có nhiều trường hợp, bệnh nhân sau khi được điều trị bệnh glôcôm lại chủ quan không đi khám hay theo dõi tiếp khiến bệnh lại tái phát âm ỉ và gây ra tình trạng thị lực bị mất vĩnh viễn. Do vậy, người bệnh cần tuân thủ đúng theo chỉ định của bác sĩ trong việc điều trị và theo dõi để có thể bảo vệ sức khỏe của mắt tối đa.
Hy vọng bài viết đã đem đến những thông tin hữu ích về bệnh glôcôm để có thể phát hiện và có các phương án điều trị kịp thời, bảo vệ được đôi mắt cũng như thị lực.
Nếu còn điều gì thắc mắc, đừng chần chờ, hãy gọi cho chúng tôi qua tổng đài để được hỗ trợ!