Áp-xe thành sau họng là hiện tượng viêm nhiễm, hóa mủ nằm ở khoảng trống giữa thành sau của họng miệng và cân trước sống, đặc biệt với trẻ dưới 2 tuổi. Áp-xe thành sau họng có nguy hiểm không là câu hỏi được nhiều người đặt ra khi bị bệnh.
Menu xem nhanh:
Áp-xe thành sau họng nguy hiểm thế nào?
Áp-xe thành sau họng được xếp vào nhóm bệnh nhiễm khuẩn vùng cổ sâu. Đây là một bệnh nặng, đe dọa đến tính mạng người bệnh. Áp-xe thành sau họng tuy là một cấp cứu ít gặp trong chuyên khoa tai – mũi – họng nhưng tỷ lệ tử vong lại cao, chiếm khoảng 15% các nguyên nhân tử vong của trẻ dưới 2 tuổi trong bệnh lý về tai – mũi – họng.
Áp-xe thành sau họng thường gặp do biến chứng từ những nhiễm khuẩn vùng tai – mũi – họng như viêm V.A, viêm mũi xoang, viêm amidan… không được điều trị hoặc do độc tính của vi khuẩn gây bệnh quá cao. Bệnh dễ dàng xuất hiện hơn ở những trẻ suy giảm miễn dịch, cơ thể suy dinh dưỡng. Từ những ổ nhiễm khuẩn này, quá trình viêm xâm nhập vào các hạch bạch huyết ở khoang sau họng gây ra áp-xe thành sau họng.
Nếu áp-xe thành sau họng hình thành ở người lớn thì nguyên nhân lại xuất phát từ các chấn thương vùng họng, do vi khuẩn đặc hiệu như lao, do dị vật đường ăn chui sâu vào thành sau họng hoặc bệnh nhân bị dị vật tự móc họng gây ra.
Mặc dù áp-xe thành sau họng là bệnh nặng nhưng nếu được phát hiện và điều trị kịp thời, bệnh sẽ được kiểm soát tốt.
Cách phát hiện bệnh
Thông thường khi bị áp-xe thành sau họng, người bệnh sẽ có biểu hiện ngạt mũi, chảy mũi vàng xanh, ho có đờm đột nhiên xuất hiện sốt rất cao, 39-40 đô C, rét run, môi khô, lưỡi bẩn, da xanh tái, mạch nhanh nhỏ, khó bắt. Trẻ không bú được, bỏ bú, quấy khóc nhiều. Trẻ quay cổ khó khăn. Tiếng khóc như bị chẹn ở họng hoặc giọng nói thay đổi như ngậm hạt thị (nếu là người lớn).
Khi khối áp-xe quá to lan sâu xuống hạ họng-thanh quản sẽ xuất hiện khó thở, thở rít. Miệng xuất tiết nhiều nước dãi chảy ra ngoài, hơi thở có mùi rất hôi thối.
Khi có biểu hiện áp-xe thành sau họng, người bệnh cần đến gặp bác sĩ chuyên khoa Tai mũi họng. Qua thăm khám thấy niêm mạc họng, mũi đều đỏ rực, nhiều dịch tiết màu vàng xanh. Khối phồng quan sát ở ngay thành sau họng, to hay nhỏ tùy theo giai đoạn của bệnh.
Để chẩn đoán chính xác tình trạng bệnh, bác sĩ sẽ chỉ định làm các xét nghiệm, kiểm tra cần thiết như xét nghiệm máu, chụp X-quang cổ. Có thể tiến hành chụp cắt lớp vi tính vùng cổ để có thể đánh giá được chính xác vị trí, kích thước, mức độ nặng của khối áp-xe.
Hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của kháng sinh, một số trường hợp nếu là ổ áp-xe mới hình thành, người ta có thể điều trị nội khoa và theo dõi tại bệnh viện. Trích rạch được thực hiện sau 3 ngày theo dõi mà bệnh không tiến triển tốt.
Điều trị nội khoa kết hợp được thực hiện với kháng sinh liều cao, phổ rộng, có phối hợp các nhóm kháng sinh (trong đó có nhóm kháng sinh chống kỵ khí). Hạ sốt, giảm viêm, giảm đau, bồi phụ nước và điện giải hợp lý cho trẻ.
Bệnh không có khả năng tự khỏi. Nếu không được xử trí đúng và kịp thời, bệnh nhân tử vong do nhiễm khuẩn nhiễm độc nặng, do chèn ép đường thở, áp-xe lan theo khoang sau tạng vào trung thất hoặc vỡ mủ vào trung thất. Nhưng nếu xử trí đúng, bệnh diễn biến tốt sau khi chích rạch từ 7 – 10 ngày.
Để ngăn ngừa sự tiến triển của bệnh và cải thiện sớm tình trạng sức khỏe, người bệnh nên tới trực tiếp bệnh viện để có biện pháp điều trị hiệu quả.