Thông tin cần biết về phẫu thuật tạo hình khúc nối bể thận niệu quản

Tham vấn bác sĩ
Thầy Thuốc ưu tú, Bác sĩ CKII

Phạm Huy Huyên

Phó Giám đốc Bệnh viện ĐKQT Thu Cúc, Phụ trách Ngoại thận tiết niệu

Hẹp khúc nối bể thận niệu quản sẽ gây cản trở dòng nước tiểu từ bể thận xuống niệu quản, gây ứ nước tại thận và lâu ngày dẫn đến suy thận. Phẫu thuật tạo hình khúc nối bể thận niệu quản (còn được gọi là tạo hình bể thận) là phương pháp loại bỏ đoạn chít hẹp bể thận niệu quản, phục hồi sự lưu thông tốt từ bể thận xuống niệu quản.

1.Tình trạng hẹp khúc nối bể thận – niệu quản

Hẹp khúc nối bể thận – niệu quản là phần nối bể thận niệu quản bị chít hẹp làm cản trở lưu thông nước tiểu từ bể thận xuống niệu quản. Tình trạng này có thể xuất hiện ở 1 bên hoặc cả 2 bên thận, nhưng tỷ lệ hẹp bên trái cao gấp 2 lần sao với bên phải. Bệnh cũng xảy ra ở trẻ em nhiều hơn người lớn với tỷ lệ gặp ở nam cao hơn ở nữ.

Phẫu thuật tạo hình khúc nối bể thận niệu quản ở trẻ em

Hẹp khúc nối bể thận niệu quản là bệnh lý mắc ở trẻ em cao hơn so với người lớn

Những triệu chứng ban đầu của bệnh thường không rõ ràng, người bệnh có thể vô tình phát hiện bệnh qua siêu âm ổ bụng. Khi bệnh đã tiến triển, người bệnh thường gặp một số triệu chứng sau:

– Đau hông lưng: đau lâu ngày hoặc mỏi lưng tái diễn, biểu hiện rõ ràng hơn khi uống nước gây đau, thậm chí là cơn đau quặn thận. Hẹp khúc nối bể thận niệu quản lâu ngày sẽ gây ứ nước tại thận, làm giảm chức năng thận một phần hoặc hoàn toàn dẫn đến suy thận.

– Nước tiểu bị tồn đọng cũng là môi trường thuận lợi cho vi khuẩn phát triển gây nhiễm trùng đường tiết niệu với các biểu hiện như sốt, tiểu buốt, tiểu rắt, tiểu máu,..

Tình trạng hẹp khúc nối bể thận – niệu quản có thể do 2 nguyên nhân chính sau:

– Nguyên nhân bên ngoài: do mạch máu bất thường hoặc do vạt xơ dày chèn ép

– Nguyên nhân bên trong: do tắc nghẽn tại eo hẹp khúc nối bể thận, do đoạn niệu quản gần bể thận bị gấp, xoắn hoặc do niệu quản cắm vào bể thận ở vị trí bất thường.

2. Chỉ định của phương pháp

Phương pháp tạo hình tạo hình bể thận – niệu quản, cắt bỏ khúc nối hẹp và bể thận giãn được Anderson và Hynes đưa ra lần đầu tiên năm 1946, đã được công nhận và sử dụng phổ biến đến ngày này. Anderson – Hynes được đánh giá là “tiêu chuẩn vàng” trong điều trị bệnh lý hẹp khúc nối bể thận – niệu quản. Phương pháp này được chỉ định trong các trường hợp dưới đây:

– Hẹp khúc nối bể thận – niệu quản bẩm sinh do nguyên nhân bên trong hoặc bên ngoài khúc nối gây ứ nước thận.

– Hẹp khúc nối bể thận – niệu quản thứ phát do xơ dính gây chít hẹp sau phẫu thuật (sỏi, tạo hình)

– Có sỏi bên thận

Tìm hiểu về phẫu thuật tạo hình khúc nối bể thận niệu quản (hay tạo hình bể thận)

Hẹp khúc nối bể thận lâu ngày sẽ dẫn đến ứ nước, giãn đài bể thận và suy thận

Tuy nhiên phương pháp này thường không được chỉ định trong các trường hợp sau:

– Người bệnh bị hẹp khúc nối có biến chứng nhiễm khuẩn niệu cấp tính

– Người thận có chức năng thận suy giảm, còn dưới 15%

– Người bệnh có chống chỉ định với gây mê hồi sức hay đang mắc các bệnh nội khoa nặng tiến triển (tim mạch, phổi, ..)

3. Quy trình phẫu thuật tạo hình bể thận niệu quản

3.1 Chuẩn bị

Trước khi phẫu thuật, người bệnh thường được siêu âm, chụp niệu đồ tĩnh mạch (UIV), X-quang, chụp cắt lớp vi tính và xét nghiệm để đánh giá chức năng thận. Trường hợp người bệnh đang mắc nhiễm khuẩn đường tiết niệu và một số bệnh toàn thân khác thì cần điều trị ổn định trước khi phẫu thuật.

– Siêu âm: Để đánh giá độ dày nhu mô thận, đường kính trước – sau bể thận, niệu quản phải dưới, tình trạng nước tiểu, phân độ ứ nước thận.

– Chụp niệu đồ tĩnh mạch: để đánh giá mức độ ứ nước cũng như chức năng của từng thận.

Chụp cắt lớp vi tính: để đánh giá vị trí niệu quản, mạch máu bất thường, các bệnh lý mắc kèm và phân độ ứ nước thận.

Một số trường hợp có thể được chỉ định chụp xạ hình thận nếu thận bị ứ nước nặng nhu mô thận giãn mỏng để quyết định phẫu thuật tạo hình hay cắt thận. Khi chức năng thận giảm xuống dưới 15% thì chỉ định cắt bỏ thận.

3.2 Quy trình phẫu thuật tạo hình khúc nối bể thận niệu quản

Khi ấy, phẫu thuật tạo hình khúc nối bể thận niệu quản được tiến hành theo các bước như sau:

Bước 1: Vô cảm bệnh nhân bằng gây mê nội khí quản.

Bước 2: Tư thế người bệnh: nằm nghiêng 90 độ, độn gối vùng sườn thắt lưng phía dưới cho vùng mổ được nổi vồng lên.

Bước 3:

– Rạch da đường sườn thắt lưng, qua các lớp ngoài phúc mạc vào ổ thận.

– Bộc lộ rõ ràng tìm thận, bể thận, niệu quản để tìm đoạn chít hẹp bể thận – niệu quản.

– Xử lý đoạn chít hẹp: Nếu nguyên nhân chít hẹp là từ bên ngoài bởi các mạch máu lạc chỗ và các vạt xơ thì cắt bỏ để giải phóng cho đến khi niệu quản phình lên. Nếu nguyên nhân chít hẹp từ bên trong thì cắt bỏ đoạn chít hẹp (phía trên 2/3 hoặc 3/4 bể thận, phía dưới cắt vát đầu niệu quản chỗ lành).

– Nối bể thận – niệu quản bằng chỉ tiêu chậm, đặt ống thông từ bể thận xuống niệu quản, bàng quang.

– Tiến hành dẫn lưu thận bằng ống thông Pezzer. Và đặt một ống dẫn lưu ngoài thận.

Bước 4: Kiểm tra lại và khâu đóng thành bụng.

Phẫu thuật tạo hình khúc nối bể thận niệu quản (hay tạo hình bể thận) bằng phương pháp của Anderson – Hynes vẫn được sử dụng phổ biến hiện nay

Phẫu thuật tạo hình khúc nối bể thận niệu quản (tạo hình bể thận) bằng phương pháp của Anderson – Hynes vẫn được sử dụng phổ biến hiện nay

3.3. Theo dõi sau phẫu thuật tạo hình khúc nối bể thận niệu quản

– Ống dẫn lưu thận: theo dõi màu sắc, số lượng nước tiểu trong 24 giờ, rút ống dẫn lưu thận từ ngày thứ 12 khi đảm bảo sự lưu thông bình thường nước tiểu từ thận xuống bàng quang qua khúc nối tạo hình liền sẹo tốt.

– Ống dẫn lưu ngoài thận: rút sau 48 giờ.

4. Biến chứng có thể gặp

4.1 Trong phẫu thuật

– Rách phúc mạc: xử trí bằng cách khâu lại.

– Tổn thương mạch máu: trong khi mổ cần phẫu tích thận trọng, xác định rõ các bước giải phẫu và xử trí tai biến bằng cách cầm máu và khâu lại.

– Tổn thương các cơ quan xung quanh: xử lý tùy theo thương tổn.

4.2 Tai biến sau mổ

– Chảy máu trong thận: Bơm rửa nhẹ nhàng bằng huyết thanh mặn 0,9% cho hết máu cục. Nếu chảy máu nhiều phải phẫu thuật lại để cầm máu.

– Tắc ống dẫn lưu: Xử trí bằng cách bơm rửa để thông ống.

– Rò nước tiểu đoạn khúc nối tạo hình: đặt 1 ống thông nòng JJ qua nội soi. Nếu không được phải phẫu thuật lại.

– Nhiễm khuẩn tiết niệu: điều trị bằng kháng sinh phối hợp dựa trên kết quả của kháng sinh đồ.

– Khi gặp phải các triệu chứng bất thường như đau dữ dội vùng thắt lưng, tiểu buốt, tiểu ra máu,… thì cần liên hệ với bác sĩ và đến cơ sở y tế ngày để được thăm khám và xử lý càng sớm càng tốt.

Phẫu thuật tạo hình khúc nối bể thận – niệu quản có thể tiềm ẩn một số biến chứng sau phẫu thuật. Vì vậy, để ca phẫu thuật thành công và hạn chế những biến chứng trên, người bệnh nên tìm hiểu và lựa chọn bệnh viện chuyên khoa uy tín với đội ngũ bác sĩ giàu chuyên môn kinh nghiệm và trang thiết bị hiện đại.

Lưu ý, các thông tin trên chỉ dành cho mục đích tham khảo và tra cứu, không thay thế cho việc thăm khám, chẩn đoán hoặc điều trị y khoa. Người bệnh cần tuân theo hướng dẫn của bác sĩ, không tự ý thực hiện theo nội dung bài viết để đảm bảo an toàn cho sức khỏe.

Chia sẻ:
Từ khóa:

Tin tức mới
Đăng ký nhận tư vấn
Vui lòng để lại thông tin và nhu cầu của Quý khách để được nhận tư vấn
Connect Zalo TCI Hospital